Chuùng ta hoïc Phaät phaûi laáy thaønh toái Chaùnh Giaùc
Laøm muïc tieâu hoïc taäp

kinhphatthuyet.vn

THIỀN TÔNG VĨNH GIA TẬP - CHƯƠNG THỨ BỐN - BÀI TỤNG XA MA THA

THIỀN TÔNG VĨNH GIA TẬP

Giảng giải: Sa Môn Huyền Giác, Đời Đường
 

CHƯƠNG THỨ BỐN

BÀI TỤNG XA MA THA
 

Khéo léo lúc dụng tâm

Khéo léo không tâm dụng

Không tâm khéo léo dụng

Thường dụng khéo léo không.

Niệm chẳng bặt thì trần chẳng dứt, trần chẳng dứt thì niệm chẳng bặt. Trần quên là do dứt niệm, niệm dứt là do quyên trần mà dứt. Do dứt trần mà bặt niệm, nên dứt mà không có chủ thể dứt. Do bặt niệm mà dứt trần, nên dứt mà không có đối tượng để dứt.

Dứt mà không có đối tượng để dứt thì trần tiêu, chẳng còn đối cảnh. Dứt mà không có chủ thể dứt thì niệm diệt, chẳng còn chủ thể hay biết. Biết đã diệt, đối cảnh cũng không, thì hiển bày diệu tánh tự nhiên, hoàn toàn vắng lặng, rỗng rang không nương gá. Như lửa gặp khoảng không thì lửa tự tắt. Khoảng không dụ cho diệu tánh chẳng phải tướng, lửa tắt dụ cho vọng niệm không sanh.

Có lời ghi:

Quên duyên rồi thì lặng lặng.

Tánh linh tri hiện rõ ràng.

Vô ký tối tăm tỏ rõ.

Hợp chơn vốn không rành rành.

Tỉnh tỉnh mà lặng lặng thì phải.

Lặng lặng mà vô ký thì sai.

Lặng lặng mà tỉnh tỉnh thì phải.

Tỉnh tỉnh mà loạn tưởng thì sai.

Nếu dùng cái biết để biết cảnh giới lặng lặng, thì biết đó chẳng phải cái biết không duyên. Như tay cầm hạt châu như ý thì chẳng phải trên tay không có cây như ý. Nếu cái tự biết để biết được cảnh giới lặng lặng, thì cũng chẳng phải cái không duyên.

Như bàn tay nắm lại chẳng phải là không có nắm tay. Như vậy, cũng chẳng phải dùng cái biết để biết lặng, cũng chẳng tự biết cái biết, thì không thể nói là không biết, vì tự tánh hiển nhiên như thế, nên nói chẳng đồng với gỗ đá. Như tay chẳng cầm châu như ý, cũng chẳng tự nắm lại thành cái nắm tay, nhưng cũng thể nói không có tay, vì rõ ràng có tay nên chẳng đồng với lông rùa, sừng thỏ.

Thứ tự tu tâm: Hễ dùng cái biết để biết vật thì vật và cái biết cùng tồn tại. Nếu dùng cái biết để biết cái biết, đã biết cái biết thì lìa được vật, vật tuy lìa được, nhưng cái biết hãy còn. Khởi cái biết để biết cái biết, lúc cái biết sau vừa sanh thì cái biết trước diệt.

Hai cái biết không đồng thời tồn tại, chỉ vì cái biết trước diệt, ngay nơi chỗ diệt lại là cảnh được biết, nên năng sở đều chẳng chân thật. Cái biết trước diệt để dẫn sanh cái biết sau, cái biết sau sanh lại tiếp tục diệt. Đó chính là đạo lý luân hồi.

Nay nói đến biết thì không cần biết cái biết năng tri, chỉ cần biết mà thôi. Biết trước nó không diệt, biết sau không dẫn khởi cái trên, niệm trước sau tiếp nối sinh diệt, giữa tự cô lập. Đương thể không thấy chỗ nương gá, tức thời tiêu diệt. Biết thể đã diệt, hoát nhiên như nắm bắt hư không, phút chốc vắng lặng, chỉ có giác vô sở đắc, tức là giác mà không giác, giác mà không giác, khác gì gỗ, đá.

Đây là chỗ bắt đầu dụng tâm cần phải dứt bặt tư lự, đồng như người chết, năng sở liền quyên, hết sạch thức duyên, tịch tĩnh vắng không. Vắng lặng tợ như không biết mà biết, tính của cái không biết mà biết, khác với gỗ đá. Đây là cảnh giới sơ tâm, rất khó thể lãnh hội. Khi mới nhập sơ tâm, không nên có ba việc.

Ác: Nghĩa là suy nghĩ về nhân duyên ngũ dục ở thế gian.

Thiện: Nghĩa là suy nghĩ các việc thiện của thế gian.

Vô ký: Nghĩa là không suy nghĩ việc thiện ác, không trụ vào chỗ u mê.

Trong giới cũng cần phải đầy đủ ba pháp:

Nhiếp luật nghi giới: Nghĩa là đoạn trừ tất cả các việc ác.

Nhiếp thiện pháp giới: Nghĩa là tất cả các việc thiện.

Nhiêu ích hữu tình giới: Nghĩa là thệ nguyện độ hết thảy chúng sanh.

Trong định cũng cần phải có ba việc cần biết:

An trụ định: Nghĩa là diệu tánh tự nhiên vốn không dao động.

Dẫn khởi định: Nghĩa là lắng tâm tịch tĩnh, dứt vọng, trí tuệ phát sáng.

Biện sự định: Nghĩa là khi định đã được lắng trong, soi tỏ muôn trượng.

Trong Huệ phải đầy đủ ba thứ phân biệt:

Nhân không huệ: Biết ngũ ấm không phải ngã, tức trong ngũ ấm cũng không có ngã như lông rùa sừng thỏ.

Pháp không huệ: Biết rõ ngũ ấm bằng các pháp duyên giả không thật, như cảnh tượng trăng trong nước.

Không không huệ: Biết rõ được cảnh và trí thảy đều không, không này cũng là không.

Kiến cũng phải đầy đủ ba thứ:

Không kiến: Thấy không nhưng cái thấy không phải là không.

Bất không kiến: Thấy có nhưng cái thấy chẳng phải không.

Tánh không kiến: Thấy tự tánh mà cái thấy chẳng phải tánh.

Trong Thiên cũng có ba điều phải chọn:

Có pháp thân không có bát nhã và giải thoát.

Có bát nhã không có giải thoát và pháp thân.

Có giải thoát, không pháp thân và bát nhã.

Có một thiếu hai, nên không tròn đầy, không tròn đầy nên chẳng phải tánh.

Lại có ba điều cần phải chọn:

Có pháp thân và bát nhã, không có giải thoát.

Có bát nhã và giải thoát, không có pháp thân.

Có giải thoát và pháp thân, không có bát nhã.

Có hai thiếu một nên không tròn đầy, không tròn đầy nên không phải tánh.

Trong Viên này cũng có ba điều cần phải xem:

Pháp Thân không si tức bát nhã. bát nhã không chấp tức giải thoát. Giải thoát tịch diệt tức pháp thân.

Bát Nhã không chấp tức giải thoát: Giải thoát tịch diệt tức pháp thân, pháp thân không si tức bát nhã.

Giải thoát tịch diệt tức pháp thân: pháp thân bất si tức bát nhã.

Bát Nhã không chấp tức giải thoát.

Nêu lên một tức đủ cả ba: Nói ba Thể tức là một. Ba đức trong nhân đây không phải ba đức trên quả, muốn biết ba đức trên quả: pháp thân có đoạn đức, nhờ dứt hoặc để bày đức, nên gọi là đoạn đức. Tự thọ dụng thân có trí đức, vì đầy đủ công đức chân thật của bốn trí. Tha thọ dụng thân và Hóa thân có đại ân đức vì tha thọ dụng thân ban ân đức cho hàng Thập Địa Bồ Tát, vì ba thứ hoá thân đối với hàng Bồ Tát, Nhị thừa và loài dị sanh có ân đức.

Ba Đế bốn trí, ngoại trừ Thành sở tác trí duyên Tục Đế. Nhưng pháp không có sâu cạn, nhưng chiếu soi thì có sáng có tối. Tâm không có dơ sạch, nhưng vì hiển bày nên có mê có ngộ. Kẻ sơ tâm mê đâu chẳng phải cạn, cuối cùng khế hợp lý mới biết đâu chẳng phải sâu. Mê tâm mất lý tự nó sai lầm, tâm ngộ thì hết sai mà tức lý. Mê và ngộ đồng lý ấy, nên có tên gọi Tiệm thứ.

Lại nữa người mới nhập sơ tâm, sau khi vào cửa phải biết năm niệm:

Khởi niệm.

Xuyên suốt học tập.

Tiếp nối.

Biệt sanh.

Tức tịnh.

Khởi niệm: Nghĩa là khởi tâm tư duy về ngũ dục ở thế gian và mọi việc.

Xuyên suốt học tập: Nghĩa là khi vô tâm là thường nghĩ nhớ và suy tư về các việc thiện ác.

Tâm niệm luôn tiếp nối: Nghĩa là khi học tâp bổng nhiên tâm trí muốn dong ruỗi tán loạn, không chế ngự được mình, nên tiếp tục như trước, tư duy không được định.

Niệm biệt sanh: Nghĩa là phần niệm trước bị tán loạn, nên sanh ra hổ thẹn muốn sữa đổi.

Niệm thanh tịnh: Nghĩa là lúc đầu ngồi không phát sinh việc thiện ác thế gian, không ghi nhớ các việc, tức là mọi việc thành công trong đời. Cho nên là ngay nơi ấy liền được tịch tĩnh.

Người sơ tâm phần nhiều có một niệm biệt sanh. Người giải đãi có hai niệm tiếp tục và cố khởi. Người hay hổ thẹn phần nhiều có một niệm biệt sanh. Người tinh tấn thường có một niệm tức tịnh. Bốn niệm quán tập, tiếp tục, cố khời và biệt sanh là bệnh. Một niệm tức tịnh là thuốc.

Tuy thuốc và bệnh có khác nhau nhưng đều gọi chung là niệm. Lúc năm niệm này ngừng dứt gọi là nhất niệm tương ưng. Nhất niệm nghiã là tự tánh linh tri, nhưng năm niệm này là một trong năm niệm. Nhất niệm là căn bản của năm niệm ấy.

Lại nữa, nếu như lúc nhất niệm tương ưng cho nên phải biết sáu điều sau đây cần cân nhắc:

Một là biết bệnh.

Hai là biết thuốc.

Ba là biết cách đối trị.

Bốn là biết phát sinh ra lỗi.

Năm là biết thị phi.

Thứ sáu việc chánh trợ.

Bệnh có hai thứ:

Một là duyên lự.

Hai là vô ký.

Duyên lự nghĩa là có hai niệm thiện và niệm ác, tuy khác nhau, nhưng đều không được giải thoát, nên gom chung lại là duyên lự.

Vô ký nghĩa là không có duyên theo việc thiện ác, nhưng cả hai đều không phải là chơn tâm, chỉ là hôn trầm, hai thứ này đều gọi là bệnh.

Thuốc cũng có hai thứ: Một là tịch tịnh. Hai là tĩnh tĩnh.

Tịch tịch: Nghĩa là không có nghĩ đến việc thiện ác cảnh bên ngoài.

Tĩnh tĩnh: Nghĩa là không sanh các tướng hôn trầm vô ký. Hai thứ này đều gọi là thuốc.

Đối trị: Nghĩa là dùng tịch tịch để đối trị duyên lự. Dùng tĩnh tĩnh để đối trị hôn trầm. Dùng hai thuốc này để đối trị hai cái bệnh kia. Cho nên gọi là Đối trị.

Quá sinh: Nghĩa là tịch tịch lâu sinh ra hôn trầm, còn tĩnh tĩnh lâu sinh ra duyên lự, vì thuốc phát sinh ra bệnh, nên gọi là lỗi sinh.

Biết thị phi: Nghĩa là tịch tịch không tĩnh tĩnh, đây là hôn trầm, còn tĩnh tĩnh không tịch tịch, đây duyên theo lự. Không tĩnh tĩnh, không tịch tịch, ở đây không chỉ duyên lự, mà còn hôn trầm, vừa tịch tịch, vừa tĩnh tĩnh, chẳng những sáng suốt mà còn yên lặng, đây trở về cội nguồn diệu tính vậy. Bốn câu đây, có ba câu trước là sai, câu sau đúng, cho nên nói biết thị phi.

Chánh trợ: Lấy tĩnh tĩnh là chính. Tịch tịch là trợ. Hai hạnh này, thể không lìa nhau, như người bệnh phải cầm gậy mà đi, việc đi là chính, còn gậy là trợ giúp. Người bệnh muốn đi trước hết nắm gậy, sau đó mới đi.

Người tu tâm cũng như thế, trước tiên phải dứt hết tâm phan duyên để cho tâm tịch tịch, không nghĩ đến việc thiện ác của ngoại cảnh kế là phải tĩnh tĩnh không sanh các tướng hôn trầm, vô ký, không đưa đến hôn trầm, khiến cho tâm sáng tỏ vừa lặng lặng.

Sáng tỏ, lặng lặng, tuy có hai tên gọi nhưng cùng một bản thể, lại không đồng thời. Ví như người bệnh muốn đi, thiếu gậy thì không đi được, lúc đi phải mượn gậy mới có thể đi được. Người công phu tu tập cũng như thế. Sáng tỏ, lặng lặng cả hai phải cùng lúc, lại có hai tên gọi, nhưng Thể nó không khác.

Lại nói loạn tưởng là bệnh, còn vô ký cũng là bệnh. Tịch tịch là thuốc, tịch tịch phá loạn tưởng, tĩnh tĩnh, nhưng tỉnh giác thì trị bệnh vô ký, rồi sanh loạn tưởng, tuy tịch tịch có thể trị loạn tưởng, nhưng rồi trở lại sinh vô ký. Tĩnh tĩnh có thể trị bệnh vô ký, nên nói tĩnh tĩnh, tịch tịch là vô ký.

Tịch tịch không phải tịch tịch, thì tĩnh tĩnh đúng, loạn tưởng tĩnh tĩnh là sai, tịch tịch là trợ giúp, tĩnh tĩnh là chính, xét kỹ những điều ấy, sau đó liệu giản sáu thứ liệu giản: Thức bệnh, thức dược, thức đối trị, thức quá sanh, thức thị phi, thức chánh trợ phải biết rõ năm ấm trong một niệm, nghiã là phải phân biệt rõ ràng, biết rõ tâm tương ưng, tức là thức ấm, lãnh nạp trong tâm tức là thọ ấm.

Tâm duyên theo lý tức là tưởng ấm, thực hành theo lý này tức là hành ấm. Chân tính ô nhiễm tức là sắc ấm. Năm ấm này chỉ nêu lên tâm thể năm ấm ấy, tức là một niệm.

Một niệm đây thể thì toàn thể là ngũ ấm, thấy rõ ràng trong một niệm này, không có chủ tể tức là nhân không huệ, thấy huyễn hóa tức là pháp không huệ. Thế nên phải biết năm ấm và sáu thứ phân biệt chọn lựa, xin đừng nghi ngờ nó, như muốn lấy vàng thật, chỉ cần chọn lựa riêng đá sỏi và vàng giả, dầu không biết là vàng thật, nhưng bản chất tự nó thể hiện ra, lo gì mà không được.

***