Chuùng ta hoïc Phaät phaûi laáy thaønh toái Chaùnh Giaùc
Laøm muïc tieâu hoïc taäp

kinhphatthuyet.vn

PHẬT THUYẾT KINH TỪ BI METTA SUTTA

PHẬT THUYẾT KINH

TỪ BI METTA SUTTA

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

An Thế Cao, Đời Hậu Hán
 

NGUYÊN NHÂN GIẢNG KINH
 

Thông thường trước khi nhập hạ, các Tỳ Kheo từ mọi nơi đến thăm viếng Đức Thế Tôn và xin một đề mục hành thiền, trong đó có một nhóm năm trăm thầy Tỳ Kheo.

Sau khi nhận đề mục, các vị Tỳ Kheo cùng nhau đi đến một khu rừng vắng thuộc dãy núi Himavantu để an cư và hành thiền.

Hàng ngày, các thầy đi vào thôn làng gần đó để khất thực. Dân chúng trong làng hoan hỷ cúng dường và cung thỉnh các thầy nhập hạ tại khu rừng để họ có dịp cúng dường, thọ giới và nghe pháp.

Các thầy Tỳ Kheo thường hành thiền dưới các cội cây to lớn.

Ban đầu Chư Thiên cư ngụ trên cây rất vui mừng và để tỏ lòng kính trọng chư tăng, họ đã tạm dời xuống mặt đất. Nhưng sau một thời gian, cuộc sống dưới mặt đất rất bất tiện nên họ đâm ra bực bội.

Biết không thể nào chịu đựng được như vậy trong ba tháng nên Chư Thiên đã tìm đủ mọi cách để xua đuổi các thầy Tỳ Kheo ra khỏi khu rừng.

Họ đã biến hóa ra những hình ảnh ghê sợ, những âm thanh rùng rợn và các mùi hôi thối để làm nản lòng các thầy. Trước những cảnh tượng kinh hoàng, tâm của các thầy bắt đầu dao động, sợ hãi, và đâm ra mất ăn, mất ngủ, thân thể bệnh hoạn, ốm yếu, gầy mòn.

Tinh thần không còn yên ổn để hành thiền. Do đó các thầy cùng nhau quay về Savatthi để xin Đức Phật cho nhập hạ tại một nơi khác.

Đức Phật hỏi nguyên do và nhận thấy không có chỗ nào thích hợp hơn khu rừng, nên ngài khuyên các thầy nên trở về chỗ cũ và dạy cho các thầy bài Kinh Từ Bi để tự bảo vệ khỏi sự quấy phá của Chư Thiên. Các thầy tuân lời và học thuộc lòng bài Kinh này trước khi trở lại khu rừng.

Trên đường trở về cũng như khi đến nơi, các thầy đều tụng bài Kinh này và tập rải tâm từ cho Chư Thiên khiến họ hoan hỷ nên họ không còn quấy phá các thầy nữa. Nhờ vậy mà các thầy sống yên ổn tu hành, tinh tấn hành thiền và đều đắc quả sau mùa an cư năm đó.
 

CHÁNH KINH
 

1. Ai khôn ngoan muốn tìm hạnh phúc

Và ước mong sống với an lành

Phải tài năng ngay thẳng công minh

Nghe lời phải dịu hiền khiêm tốn.

2. Ưa thanh bần dễ dàng chịu đựng

Ít bận rộn vui đời giản dị

Chế ngự giác quan và thận trọng

Không liều lĩnh chẳng mê tục lụy.

3. Không chạy theo điều quấy nhỏ nhoi

Mà thánh hiền có thể chê bai

Đem an vui đến cho muôn loài

Cầu chúng sinh thảy đều an lạc.

4. Không bỏ sót một hữu tình nào

Kẻ ốm yếu hoặc người khỏe mạnh

Giống lớn to hoặc loại dài cao

Thân trung bình hoặc ngắn, nhỏ, thô.

5. Có hình tướng hay không hình tướng

Ở gần ta hoặc ở nơi xa

Đã sanh rồi hoặc sắp sanh ra

Cầu cho tất cả đều an lạc.

6. Với ai và bất luận ở đâu

Không lừa dối chẳng nên khinh dễ

Lúc căm hờn hoặc khi giận dữ

Đừng mưu toan gây khổ cho nhau.

7. Như mẹ hiền thương yêu con một

Dám hy sinh bảo vệ cho con

Với muôn loài ân cần không khác

Lòng ái từ như bể như non.

8. Tung rải từ tâm khắp Vũ Trụ

Mở rộng lòng thương không giới hạn

Tầng trên, phía dưới và khoảng giữa

Không vuớng mắc, oán thù, ghét bỏ.

9. Khi đi, khi đứng, hoặc nằm ngồi

Hễ lúc nào tinh thần tỉnh táo

Phát triển luôn dòng chánh niệm này

Là lối sống đẹp cao nhất đời.

10. Đừng để lạc vào nơi mê tối

Đủ giới đức, trí tuệ cao vời

Và dứt bỏ lòng tham dục lạc

Được như thế thoát khỏi luân hồi.

Metta Sutta còn được dịch là Kinh Lòng Từ hay Kinh Tâm Từ, thuộc Kinh Tập Sutta Nipata của Tiểu Bộ Kinh.

***