Chuùng ta hoïc Phaät phaûi laáy thaønh toái Chaùnh Giaùc
Laøm muïc tieâu hoïc taäp
LUẬN THI THIẾT
Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư
Thi Hộ, Đời Tống
PHẦN BỐN
Hỏi: Vì sao Bồ Tát không sinh vào châu Đông Thắng thân?
Đáp: Cũng như ở Châu Tây Cù Đà Ni, các việc cũng đã nói rộng.
Hỏi: Vì sao Bồ Tát không hóa sinh vào Châu Bắc Câu Lô?
Đáp: Vì người ở Châu Bắc Câu Lô có căn tánh và phẩm chất mềm yếu, việc làm nhiều ngu độn, thuộc loại chất phác thực thà, thường đeo đuổi các công việc gian khổ, không giống tính chất của Bồ Tát.
Bồ Tát Đại Sĩ có oai đức to lớn trong suốt thời gian dài luôn siêng năng tu tập các pháp thiện, nuôi dưỡng chúng được thành thục. Trong hiện tiền các quả báo tốt lành cao quý nhanh chóng kết thành. Thế nên Bồ Tát nhất quyết sinh tại trung tâm của một cõi nước lớn. Giả sử có chúng sinh lợi căn thông minh, thanh tịnh gặp được Bồ Tát đại oai đức, song cũng không thể đối với tất cả xứ sở mà phát khởi các thiện căn vô lậu thù thắng nhất.
Mà con người ở Châu Bắc Câu Lô thì lại không chấp ngã sở.
Ở đây hỏi: Vì sao người Châu Bắc Câu Lô lại không chấp ngã sở?
Đáp: Vì có số đông chúng sinh đối với nhiều cảnh giới rộng lớn, mà số cảnh giới nhận được đều rất thích ý, bình đẳng không khác nhau, nên không có ngã sở.
Hỏi: Vì sao Bồ Tát lại không sinh vào các cõi Trời thuộc Dục Giới?
Đáp: Vì ở Cõi Trời thuộc Dục Giới, các Thiên Chúng ở đấy mê đắm cảnh giới, ưa thích phóng dật, không giống tính chất của Bồ Tát. Tuy có thể tu tập giữ gìn một phần nhỏ phạm hạnh nhưng không thể rộng vì bốn chúng Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di mà diễn giảng rộng rãi về phạm hạnh, khiến các hàng Trời, người đều đạt được nhiều lợi ích tốt đẹp. Do nhân duyên đó nên Bồ Tát không sinh vào các Cõi Trời thuộc Dục Giới.
Hỏi: Vì sao Bồ Tát lại không sinh vào các cõi Trời thuộc Sắc Giới?
Đáp: Ở các cõi Trời thuộc Sắc Giới, tuy Chư Thiên có thể tu trì một phần phạm hạnh nhưng cũng không thể rộng rãi vì bốn chúng, tất cả đều diễn giảng riêng về các phạm hạnh khiến cho hàng Trời, người được lợi ích tốt đẹp. Vả lại, Bồ Tát không thể ở tại các cõi Trời thuộc Sắc Giới mà chứng nhập Niết Bàn.
Ở đây hỏi: Vì sao nơi các cõi Trời thuộc Sắc Giới không nhập được Niết Bàn?
Đáp: Nghĩa là tướng Vô Sắc chính là thọ xứ, cho nên chỉ cần tác ý là đã chính thức nhập Niết Bàn.
Hỏi: Như các việc vừa nói thì đó là tâm bất thiện mà nhập, hay là tâm vô ký mà nhập?
Đáp: Nên biết ở đây nói là tâm vô ký mà nhập.
Hỏi: Vì sao chư Phật Thế Tôn ra đời giáo hóa chúng sinh, mà các chúng Thanh Văn hiền sĩ lại nhập Niết Bàn trước, còn Phật thì nhập sau?
Đáp: Vì các chúng Thanh Văn suốt thời gian lâu dài không gián đoạn siêng năng tu tập các pháp thiện, nuôi lớn chúng thành thục, nên ngay trong hiện tiền, các quả báo tốt lành liền nhanh chóng thành tựu. Nếu như thấy Phật Thế Tôn nhập Niết Bàn trước, thì các chúng Thanh Văn kia dù có bao nhiêu quả báo tốt đẹp cũng không thể hoàn thành trọn vẹn được.
Vả lại, pháp là như vậy, như cát sông Hằng, Chư Phật Thế Tôn có bao nhiêu, thì chúng Thanh Văn Hiền Sĩ đều nhập Niết Bàn trước, còn Chư Phật nhập sau. Như đã nói về việc nhập Niết Bàn, đó là Chư Phật Thế Tôn đối với địa bất động của đệ tứ thiền thì đã chứng nhập trong hiện tại rồi.
Ở đây cần hỏi: Vì sao Đức Thế Tôn lại nhập Niết Bàn hay chỉ là khởi ý?
Đáp: Nếu có chỗ khởi thì sẽ không có chỗ nhập.
Hỏi: Vì sao Đức Như Lai Thế Tôn khi đã nhập Niết Bàn rồi, Thánh thể đã được hỏa thiêu mà đại y của Ngài vẫn còn nguyên vẹn như cũ, hoặc trong hay ngoài đều không hư hao chút nào?
Đáp: Đó là do oai lực của Chư Thiên, nghĩa là vì Chư Thiên đối với Phật Thế Tôn hết lòng tịnh tín, tin tưởng chí thành. Vả lại có hai thứ cấm không cho thiêu đốt, đó là nội thân và ngoại tài. Nên biết đây là do thần lực của Phật mà được thế.
Nhân thi thiết trong Đối Pháp Đại Luận Phần Tụng nêu chung:
Hai duyên Hai chúng kia xuất hiện,
Thanh Văn và ba ngàn đại thiên,
Đại từ đại bi hai thứ tâm,
Chẳng nghĩ bàn, cùng pháp tùy thuận,
Việc làm khác nhau ở trong chúng,
Như voi chúa và việc địa ngục.
Hỏi: Vì sao Phật và Luân vương đều có đủ ba mươi hai tướng đại trượng phu, mà một vị gọi là Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Giác, còn vị kia thì gọi là Chuyển Luân Thánh Vương?
Đáp: Chuyển Luân Thánh Vương là do kiếp trước đã tu nhân tích đức làm phước rất nhiều, và trong suốt thời gian dài thường nghĩ: Ta nên rộng tu hạnh bố thí, gieo trồng các phước thiện cao quý, nuôi lớn tất cả chúng sinh, luôn giữ gìn giới hạnh được thanh tịnh. Cả thế gian ngu tối mê mờ không nơi nương nhờ, không ai cứu độ, ta sẽ cứu độ tất cả.
Còn Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Giác là tùy theo các việc làm, tất cả các pháp thiện, bố thí khắp cho tất cả chúng sinh ở thế gian, phát nguyện rộng lớn, và đúng như lời nguyện mà thực hiện. Bỏ nhà ra đi xuất gia, được chứng quả Chánh Giác. Do nhân duyên đó mà cả Chuyển Luân Thánh Vương và Đức Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Giác đều có đầy đủ ba mươi hai tướng đại trượng phu.
Hỏi: Vì sao Phật và bậc Duyên Giác tuy cùng ở một thời nhưng lại không gặp nhau?
Đáp: Các chúng Duyên Giác đã trong một thời gian lâu dài tu pháp Duyên Giác, quả báo tốt lành cao quý đã hoàn thành nhanh chóng ngay trong hiện tại, không còn điều gì phải ước nguyện mong cầu, còn đối với pháp tối thượng Đại thừa thì không chịu thực hiện tu hành. Lại cũng không ưa thích gần gũi cung kính chiêm ngưỡng Đức Như Lai. Do nhân duyên đó mà Phật và Duyên Giác không xuất hiện cùng một thời.
Hỏi: Vì sao trong một lúc không xuất hiện hai vị Chuyển Luân Thánh Vương?
Đáp: Chuyển Luân Thánh Vương do kiếp trước tu nhân tích đức, làm phước rất nhiều. Tức là trong suốt thời gian dài luôn siêng tu các pháp thiện. Cùng có một chiếc lọng vi diệu trùm khắp tất cả. Một vị Chuyển Luân Thánh Vương xuất hiện thì xem tất cả chúng sinh, có cảm tưởng như là một đứa con duy nhất.
Một vị Luân vương xuất hiện thì cùng một cảnh giới, ai cũng tôn trọng cúng dường, tùy theo chỗ mà làm tất cả các nghiệp thiện, các ước nguyện và quả báo tốt đẹp đều hoàn thành nhanh chóng trong hiện tiền. Do nhân duyên đó mà hai vị Chuyển Luân Thánh Vương không thể đồng thời xuất hiện.
Hỏi: Vì sao hai Đức Phật Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Giác không cùng thời xuất hiện?
Đáp: Bồ Tát ở nhiều kiếp trước đã tu nhân tích đức, làm phước rất nhiều. Nghĩa là trong suốt thời gian dài chỉ có một thầy dạy duy nhất, chỉ có một loại tu tập duy nhất mà hành các pháp thiện, tùy theo chỗ thực hiện làm việc nhưng cùng một giải thoát, chỉ có một bậc đáng tôn quý duy nhất, chỉ có một bậc đại trí duy nhất tạo các nghiệp thiện, luôn nuôi lớn chúng cho đến thành thục. Trong cùng một lúc, không có hai quả báo cùng hiện tiền khởi lên.
Vậy nghĩa là sao?
Vì hai cái khó mà cùng lúc xảy ra. Vì lý do đó mà trong một thời, không có hai Đức Phật Như Lai cùng ra đời.
Hỏi: Vì sao người phụ nữ không thể làm Chuyển Luân Thánh Vương, không thể thành Đế Thích hay Phạm Vương, Ma Vương, cũng không thể chứng được quả Bồ Đề Duyên Giác hay chứng được quả Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề?
Đáp: Vì người phụ nữ có sức thiện yếu kém, còn người nam thì sự tạo dựng các căn lực ham thích ưa muốn mạnh mẽ, do họ có tâm ưa thích làm thiện rất mạnh mẽ, trái lại người nữ thì không có thế lực mạnh, nên việc tạo nhân tốt cho nghiệp thiện đều là do người nam làm cả.
Vả lại, người nữ thì không có lợi căn thông minh bằng và chỉ có người nam mới đủ sức có thể hoàn thành. Vả lại, sức lực tốt đẹp của người nam ngày càng phát triển mạnh hơn nên hay thu nhập được các căn nghiệp lợi ích cao quý.
Do nguyên nhân đó mà người nữ không thể làm Chuyển Luân Thánh Vương, cũng không thể thành tựu được Đế Thích, Phạm Vương, Ma Vương, cũng không thể chứng được quả Bồ Đề Duyên Giác và cả quả Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ Đề.
Hỏi: Vì sao chư Phật Thế Tôn được đầy đủ trí vô biên, đầy đủ tuệ vô biên và đầy đủ biện tài vô biên?
Đáp: Vì Bồ Tát suốt thời gian dài đối với ba thứ tuệ đó luôn gần gũi tu tập, rộng làm các hạnh bố thí. Nghĩa là đối với ba tuệ văn tư tu đã thành tựu lại càng siêng năng cố gắng mạnh mẽ bồi đắp. Do nhân duyên đó mà chư Phật Thế Tôn có đầy đủ vô biên trí tuệ, vô biên biện tài.
Hỏi: Vì sao chư Phật Thế Tôn có thể phát ra tiếng nói nhiệm mầu thanh tịnh khiến cho khắp tam thiên đại thiên thế giới đều nghe thấy và đều thấu hiểu?
Đáp: Vì chư Phật Thế Tôn thành đạo chưa được bao lâu thì lại trụ vào cõi Phạm thanh tịnh, nên khiến cho tất cả những ai thường gần gũi nghe được thì liền giải thoát.
Tụng nói:
An trụ Chánh Giác của chư Phật,
Phát sinh tinh tấn cầu xuất ly,
Phá tan sinh tử sức đại quân,
Khác nào voi mạnh phá nhà cỏ.
Nay chánh pháp luật thanh tịnh này,
Tâm không buông lung, làm điều thiện,
Liền đoạn dứt được vòng sinh tử,
Hết tất cả khổ đến ngọn nguồn.
Với lời kệ như thế, tất cả chúng sinh khắp mọi thế giới đều được nghe thấy, thấu hiểu rõ ràng. Đấy chính là tiếng nói mầu nhiệm thanh tịnh của Như Lai, vang vọng khắp ba ngàn Đại Thiên Thế Giới đều nghe thấy.
Trong luận có hỏi: Do sự kiện nào mà biết được Đức Thế Tôn Chánh Giác đối với tất cả chúng sinh có lòng đại bi thương xót vượt hơn tất cả?
Đáp: Đức Thế Tôn vì thấy tất cả chúng sinh ở thế gian đều bị bệnh nhiễm phiền não, bị phiền não bức bách ép ngặt, bị mọi loại phiền não gây tổn hại, không thể cứu thoát, không chỗ quay về, không nơi hướng đến… do sự kiện đó mà Đức Thế Tôn sau khi thành Chánh Giác chưa được bao lâu, liền vì các chúng sinh mà giáo hóa cứu độ. Thế nên nói là lòng đại bi vượt hơn tất cả.
Hỏi: Vì sao khi Bồ Tát nhập định tâm Từ thì thân của Bồ Tát, lửa không thể đốt cháy được, nước không thể nhận chìm được, dao gậy không thể thương tổn được, các độc hại không thể hại được.
Và lại không ở trong khoảng ấy mà nhập diệt được?
Đáp: Vì định không não hại thì không có định để nhập, không có cả sự không não hại nên sự tiếp xúc với não hại cũng không không thấy có não hại, và không có tâm đồng phần với cõi diệt. Do nguyên nhân đó cho nên Bồ Tát khi nhập định tâm từ thì các thứ nước, lửa, dao, gậy, chất độc không thể hại được. Lại cũng không ở trong khoảng ấy mà diệt.
Hỏi: Vì sao khi nhập vào định vô tưởng và định diệt tận thì các thứ nước, lửa, đao, gậy, chất độc không thể hại được, lại cũng không ở trong khoảng ấy mà diệt?
Đáp: Đó là định không não hại, thì không có định để nhập, cũng không có sự tiếp xúc với sự không não hại, và không có tâm hướng về nơi cõi diệt. Do nguyên nhân đó nên có được các việc như thế.
Hỏi: Vì sao khi Bồ Tát còn nằm trong thai mẹ mà mẹ của Bồ Tát không bị nước, lửa, dao, gậy, chất độc gây não hại, cũng không ở trong khoảng ấy mà diệt?
Đáp: Đó là do oai lực to lớn của Bồ Tát. Vì với sức lực tốt lành cao quý đó nên khiến mẹ của Bồ Tát không bị các thứ ấy não hại.
Hỏi: Vì sao thân của Bồ Tát không bị nước, lửa, dao, gậy, chất độc làm hại được, cũng không ở trong khoảng ấy mà diệt?
Đáp: Vì so với tất cả chúng sinh thì Bồ Tát là tối thắng, so với những bậc cùng loại Bồ Tát khác cũng lại tối thắng.
Hỏi: Vì sao thân của Diệm Ma Vương cũng không bị nước, lửa, dao, gậy làm hại, cũng không ở trong khoảng ấy mà diệt?
Đáp: Vì Diệm Ma Vương đối với các loại chúng sinh thuộc Cõi Diệm Ma luôn được hơn trội, do đó mà có các việc như thế.
Hỏi: Vì sao thân của các voi chúa Ái La Phược Noa và Thiện Trụ không bị nước, lửa, dao, gậy v.v… làm hại được, cũng không ở trong khoảng ấy mà diệt?
Đáp: Các voi đó thuôc loài bàng sinh thú vật, so với các giống thú khác thì nó vượt trội hơn cả. Do đó mà có các việc như thế.
Hỏi: Vì sao các loài chúng sinh hoặc đọa trong địa ngục phải chịu khổ sở vô cùng, nhưng lại không ở trong khoảng ấy mà diệt?
Đáp: Đó là nghiệp báo thiêu đốt, vì sự chịu khổ của nghiệp báo chưa hết, do đó mà có các việc như thế.
Nhân thi thiết trong Đối Pháp Đại Luận.
Lại nữa, có một thời Phật ngụ tại nước Xá Vệ, Ngài bảo với các chúng Bí Sô: Các thầy Bí Sô nên biết! Có ba pháp gọi là nhơ bẩn bên trong, là cái chứa giấu bên trong và oán thù bên trong. Ba pháp đó là tham, sân, si.
Này các thầy Bí Sô! Vì sao lại gọi tham, sân, si là sự nhơ bẩn bên trong, là cái chứa giấu ở trong và oán thù bên trong?
Nghĩa là như có người cùng bạn xấu làm các việc như chiếm đoạt xâm phạm vật của người khác để thọ dụng, tạo mọi tội ác khác… cho đến giết hại… ấy là lòng tham ái của người đó tăng mạnh nên đem cả thân khẩu ý ra làm đủ các việc ác. Khi gây tội ác xong, do đó phải chịu đọa vào đường ác địa ngục. Đối với sân và si cũng như vậy.
Này các thầy Bí Sô! Thế nên ba pháp tham, sân, si gọi là sự nhơ bẩn bên trong, là cái chứa giấu ở trong và oán thù bên trong.
Đức Thế Tôn Thiện Thệ nói như thế đã xong, nhằm tóm tắt nên nói kệ:
Không biết rõ ràng pháp tham ái,
Với pháp tham ái chẳng xét lường,
Tham ái với người đó làm một,
Người đó rơi vào chốn tối tăm.
Người tham nhiễm sống đời vô ích,
Do tâm tham nhiễm sinh mê đắm,
Khi khởi tham nhiễm tâm lo sợ,
Phải biết kẻ ấy chẳng hiểu gì.
Nếu giỏi đoạn trừ các tham ái,
Người ấy không còn dính bụi ái,
Khi tham ái chẳng thể chuyển lay,
Khác nào hoa sen không dính nước.
Không biết rõ ràng pháp giận dữ,
Với pháp giận dữ chẳng xét lường,
Giận hờn với kẻ ấy làm một,
Kẻ ấy rơi vào chốn tối tăm.
Người hay giận sống đời vô ích,
Do tâm giận dữ sinh lỗi lầm,
Trong khi giận dữ tâm lo sợ,
Phải biết kẻ ấy chẳng hiểu gì.
Nếu giỏi đoạn trừ tật giận dữ,
Liền đối cảnh giận mà không giận,
Khi ấy giận dữ sẽ rơi mất,
Khác nào trái chín tự rụng rơi.
Không biết rõ ràng pháp si mê,
Với pháp si mê chẳng xét lường,
Si mê với kẻ nọ làm một,
Kẻ nọ liền rơi chốn tối tăm.
Người si mê sống đời vô ích,
Do lòng si mê nên lầm lạc,
Khi có si mê tâm lo sợ,
Phải biết kẻ nọ chẳng hiểu gì.
Nếu giỏi đoạn trừ thói si mê,
Chẳng bị cảnh mê làm ngu muội,
Khi si mê ấy bị phá rồi,
Khác nào Mặt Trời xua bóng tối.
Nếu biết rõ ràng ba pháp đó,
Nhất định không đọa vào đường dữ,
Tâm như cắt đứt cây Đa La,
Chặt trọn rồi không còn sống lại.
Thế nên ba pháp tham, sân, si,
Phải nên cắt đứt chẳng còn gì,
Người tu khi phát sinh tuệ lớn,
Khổ kia dứt hết chẳng còn chi.
***