Chuùng ta hoïc Phaät phaûi laáy thaønh toái Chaùnh Giaùc
Laøm muïc tieâu hoïc taäp

kinhphatthuyet.vn

LUẬN BÍCH CHI PHẬT NHÂN DUYÊN - PHẦN BA

LUẬN BÍCH CHI PHẬT

NHÂN DUYÊN

Giảng giải: Đại Sư Cát Tạng, Đời Tùy
 

PHẦN BA
 

Nhà Vua đùng đùng nổi giận, vỗ kiếm thét: Sao lại không có! Đại Thần Nguyệt Ái chẳng hề run sợ, Ngài tự suy nghĩ:

Thà chết vì Thánh pháp

Chẳng sống kẻ ngu si

Tất cả được sinh ra

Có ai mà chẳng chết

Nếu nay ta chịu chết

Vì pháp mà tan thân

Nhất định sinh Cõi Trời

Cần gì phải hoảng sợ.

Và Ngài trả lời Nhà Vua: Ngày nay, giả sử Nhà Vua chặt bửa thân tôi thành muôn ngàn mảnh nhỏ, tôi cũng không bao giờ xả bỏ giới cấm. Tôi nay sống trong đạo Tiên Thánh, nếu dùng lưỡi này nói dối, thì đó không phải là việc nên làm. Nếu nay tôi vì Nhà Vua mà nói dối, sau này sẽ đọa địa ngục, không nơi nương tựa.

Nhà Vua nghe vậy xấu hổ, tâm sân hận dâng cao, ông trừng mắt nhìn Nguyệt Ái, cơn giận bốc lên như lửa dữ. Lúc này, Đại Thần Nguyệt Ái thấy tâm mình rất hoan hỷ, đây chính là lúc mình sinh được định ý, là lúc mình nắm giữ được pháp, cần gì phải tìm kiếm đâu xa.

Hôm nay Nhà Vua đã nói pháp cho mình nghe, khiến mình xả thân vì pháp, nay Nhà Vua quả là thiện trí thức của ta. Suy nghĩ đến đây, Nguyệt Ái tỏ ngộ, chứng đắc quả vị Bích Chi Phật. Ngài bay bổng lên không, khiến cho người phá giới sinh tâm hổ thẹn, khiến người tu nghiệp thiện tăng trưởng tín hạnh.

Do nói lời chân thật, nên hiện ra quả thật, từ trong không trung, râu tóc của Ngài tự rụng. Bấy giờ Tịnh Cư Thiên dâng pháp phục Ca Sa. Ngài bay thẳng vào Hương Sơn cùng nhóm họp với các vị Bích Chi Phật khác và nói lại bài kệ trên.

Nhân duyên chứng ngộ Bích Chi Phật của Đại trưởng giả thành Vương Xá.

Nhân duyên chứng ngộ Bích Chi Phật của của quốc vương Ba La Nại là Nguyệt Xuất.

Nhân duyên chứng ngộ Bích Chi Phật của quốc vương Câu Xá Di là Đại Đế.

Nhân duyên chứng ngộ Bích Chi Phật của quốc vương Câu Xá Di.

Nhân duyên chứng ngộ Bích Chi Phật của quốc vương Ba La Nại là Thân Quán.

Nhân duyên chứng ngộ Bích Chi Phật của vị Thái tử con út Chuyển Luân Thánh Vương.

1. Nhân duyên chứng ngộ Bích Chi Phật của Đại trưởng giả thành Vương Xá.

Ví như trong rừng rậm

Muốn kéo cây lớn ra

Cành nhánh làm trở ngại

Không cách nào ra được.

Tại gia như rừng rậm

Muôn việc như nhánh cành

Dù có muốn xuất gia

Cũng khó lòng làm được.

Ngồi yên nơi rừng hoang

Quán cảnh, tu tâm mình

Cốt thoát khỏi muôn duyên

Lìa xa mọi thân ái.

Riêng một mình tu hành

Chẳng khác nào Tê giác

Nhờ Tiên đức truyền trao

Tôi nghe được việc này.

Xưa có một vị Bích Chi Phật, ở vào thời năm Đức Phật trong quá khứ thường tu các việc thiện, làm một Ưu Bà Tắc, rất ham việc nhà, dù thấy Chư Phật nhưng không cầu xuất gia, nhưng giới luật của người tại gia thì chuyên tâm giữ gìn, không mảy may phạm giới. Vào thời Phật Ca Diếp, Ngài xuất gia học đạo, tu hạnh Đầu Đà, chỉ dùng sáu vật dụng của Tỳ Kheo, chán lìa mọi thứ dục lạc. Sau đó, Ngài mạng chung sinh lên Cõi Trời.

Tuổi thọ ở Cõi Trời hết, Ngài sinh xuống nhân gian, đầu thai làm con của Đại Trưởng giả trong thành Vương Xá. Ông Trưởng giả này của cải vô lượng, kho đụn tràn đầy, giàu có chẳng khác Na La Cứu Phục La, con của Tỳ Sa Môn. Thế rồi, Ngài đam mê việc nhà, con cái đến ba mươi người, kho tàng nô bộc cùng nhiều vô kể, rồi nào là việc dựng vợ gả chồng cho con v.v... Ngài lo việc nhà đến nỗi quên cả việc tu tập.

Vì việc nhà trói buộc, không bỏ nổi thế duyên, nào là nghe gia nô tâu trình, nào là nghe thân thích bệnh chết, nghe người này dựng nhà, người kia gặp họa thất nghiệp. Toàn nghe những lời đau thương như vậy, nên Ngài thường ưu sầu, đau khổ, chẳng khác nào cả trăm mũi tên đồng loạt bắn vào tim mình.

Ngài cũng được nghe những lời tốt đẹp, an lành như khách buôn trong nhà vừa được lợi to, an ổn trở về, rồi con mình đứa thì sanh được con trai, đứa thì sanh được con có phước tướng v.v... khi nghe những việc này, Ngài lại thấy vui mừng. Cứ thế, nào lợi, nào hại làm Ngài vui buồn lẫn lộn, như người diễn trò quay cái bánh xe.

Một hôm, Ngài cùng người bạn thân đi thăm vườn ruộng, khi ngang qua một cánh rừng, Ngài thấy một tiều phu đốn một cây gỗ lớn, do cành nhánh quá nhiều, cây cối rậm rạp, đến nổi dùng mấy con voi nhưng vẫn không thể kéo cây gỗ ra khỏi rừng được. Tiều phu lại đốn một cây nhỏ, không có cành nhánh, và một mình kéo ra, xem dễ như không.

Khi thấy việc ấy, Ngài suy nghĩ: Hôm nay ta mới thấy được nhân duyên này, và Ngài nói kệ:

Ta thấy chặt cây lớn

Cành nhánh lá quá nhiều

Muốn kéo khỏi rừng rậm

Không cách nào kéo được.

Thế gian cũng như vậy

Các quyến thuộc nam nữ

Yêu ghét trói buộc tâm

Trong rừng rậm sinh tử.

Không thể nào giải thoát

Cây nhỏ không nhánh cành

Rừng rậm không cản trở

Nhờ đấy thức tỉnh ta.

Cắt đứt mọi ân ái

Trong rừng rậm sinh tử

Tự nhiên được giải thoát.

Khi đó, Ngài được chứng quả Bích Chi Phật ngay trong khu rừng ấy.

Lúc này người thân nói với Ngài: Trời sắp tối rồi, nay ta về thôi!

Ngài đáp: Ông về một mình đi, nay tôi đã cắt đứt mọi ràng buộc của gia đình!

Người bạn thân hỏi: Vì sao lại cắt đứt?

Ngài đáp: Ngày trước do luyến tiếc nên tôi mê đắm việc nhà, nay thì đã dứt sạch tâm tham luyến ấy. Con người ta tham luyến vợ con, quyến thuộc, con trẻ, cháu thơ, nuôi lớn ân ái. Như lúc thấy cha, con trẻ vui mừng, chạy tới ôm chầm, do luyến ái như vậy nên sanh lòng mê đắm.

Còn tôi ngày nay đã cắt đứt tâm luyến ái vợ con, quyến thuộc, đến như những việc kinh doanh làm giàu, chi ra thu vào, nên cho thứ này, nên giữ vật kia, việc ấy nên làm, việc kia không nên v.v... những việc như thế nay tôi không còn bận tâm nữa. Tôi đã bỏ cái vui dục lạc, được cái vui giải thoát, đã chặt đứt gốc ái, đã đóng chặt cửa các nẻo, trừ ám chướng lớn, con đỏ ngày nay đối với tôi chẳng khác oan gia. Tôi nay đã như vậy thì làm sao về lại nhà được!

Người bạn thân của Ngài trở về báo tin cho con cháu Ngài biết. Toàn thể trai gái già trẻ trong nhà nghe Ngài không về liền kéo đi thăm. Lúc họ đến, chỉ thấy cha mình mặc pháp phục Sa Môn, bay bổng lên hư không.

Đám con liền thưa: Nay vì việc gì mà cha lại chán ghét quyến thuộc?

Từ trên hư không, Ngài nói lại bài kệ đó để đáp lời con cái. Nói kệ xong, Ngài bay thẳng vào Tuyết Sơn, cùng nhóm họp với vị Bích Chi Phật khác. Sau đó Ngài trở về lại nơi mình đã chứng đạo và xả thân nhập Niết Bàn.

Bấy giờ, quyến thuộc của Ngài dựng một Bảo Tháp, đương thời người ta gọi Tháp này là Tháp Đa Tử, phàm là người trí, thiện căn đã thuần thục, chỉ cần một nhân duyên nhỏ, liền được khai ngộ.

2. Nhân duyên giác ngộ Bích Chi Phật của quốc vương Ba La Nại là Nguyệt Xuất.

Vợ con, bạn, của cải

Lo lắng trong sống chết

Ở yên với rừng sâu

Giải thoát như Tê giác.

Đức Thiện Thệ nói ra

Truyền mãi đến thầy tôi

Tôi được thầy truyền lại

Nay xin được diễn nói.

Xưa, vào thời Đức Phật Ca Diếp, có một vi Bích Chi Phật trong mười hai ngàn năm tu hành phạm hạnh, thường hành nhẫn nhục thương xót chúng sinh, dù là giới nhỏ nhưng chưa hề phạm. Đến lúc mạng chung, Ngài sinh lên Cõi Trời. Tuổi thọ ở Cõi Trời hết, Ngài sinh xuống nhân gian, đầu thai trong nhà của quốc vương nước Ba La Nại. Ngài sinh vào đúng lúc trăng mọc, vì vậy có tên là Nguyệt Xuất.

Đến lúc trưởng thành, Ngài được lập làm Thái Tử. Vua cha mất, Ngài lên kế thừa ngôi vua. Nhờ sức nghiệp thiện của đời trước, nên Ngài dùng chánh pháp để trị nước an dân, sai con của Phụ tướng quản lý mọi việc thống lĩnh nước nhỏ và gả con gái mình cho con của Phụ tướng.

Con trai của Phụ tướng là một người văn võ song toàn, có nhiều quyến thuộc nên thường cậy tài buông thả quá mức.

Lúc này, con của quốc vương rất thân với con của Phụ tướng, nhân đó con của Phụ tướng ngầm mở yến tiệc, mời Vương Tử đến dự, đồng thời bàn mưu tính kế tranh ngôi và nói với Vương Tử: Anh em trong dòng tộc của Ngài rất nhiều, mà người đời thường nghe lời của đàn bà, Phụ Vương của Ngài một mai nằm xuống, thì những người mẹ kế của Ngài sẽ to nhỏ với nhà vua rồi đưa con mình lên ngôi.

Từ đó mà xét, ngôi vua ắt sẽ không đến tay Ngài. Nay trong lúc ai nấy chưa biệt ta nên toan tính trước đi. Phàm ngôi vua là ngôi cao quý nhất trong thiên hạ, là nơi an vui chẳng khác Cõi Trời, tất cả thần dân đều phải kính phục. Nếu Ngài làm Quốc chủ, dùng chánh pháp trị nước, thì sau khi mạng chung, Ngài sẽ sinh lên Cõi Trời.

Như miếng thịt ngon ai cũng muốn ăn, ngôi vua cũng như vậy, không ai chẳng mong muốn, và con của Phụ tướng nói kệ:

Thí như nước chưa đến

Nên lo làm cầu đường

Một mai nước dữ tới

Không thể nào làm kịp.

Ngôi vua cũng như vậy

Phải nên toan tính trước

Nắm chắc trong tay mình

Tức mới thấy yên tâm.

Anh em cùng ghét nhau

Ngày sau đâu dễ giành

Vương Tử bèn suy nghĩ

Như vậy người bạn này

Đang muốn xô đẩy ta

Vào trong hầm lửa lớn

Hiện tại không an lạc

Đời sau chuốc khổ lớn.

Bấy giờ, Vương Tử kể lại việc này cho vua cha nghe. Nhà vua nghe xong đùng đùng nổi giận, hai mắt trợn tròn, liền sai sứ giả tìm bắt con của Phụ tướng dẫn về khi mọi việc còn chưa ai biết. Lúc này, Vương Tử nghe con của Phụ tướng đến, Ngài ra đón tiếp. Sau khi gặp xong, Ngài quá lo lắng và ngã bệnh. Sứ giả về tâu nhà vua rằng Vương Tử bệnh nặng, tình trạng rất nguy ngập. Nhà vua nghe tin liền vội đến thăm.

Thấy con mình bệnh tình quá nặng, mạng sống nguy khốn, toàn thân đau đớn, nhà vua liền suy nghĩ: Ngôi vua thật là họa lớn, thế mà con của Phụ tướng kia ngấm ngầm bày con ta làm nghịch mệnh trời, muốn làm kẻ trái đạo, nhưng ngôi vua của ta nói làm sao giành được. Con ta ngày nay, bệnh sắp mất mạng, tất cả thần dân đều sinh oán ghét. Từ đó mà xét, phải biết ngôi vua là nơi xấu ác vô cùng.

Vì sao?

Vì ngôi vua mà bỏ mất hạnh lành của mình, vì ngôi vua mà hại đến cha ông, những kẻ thân thích gây ra hoa lớn vì tranh giành, đánh mất tâm hổ thẹn, gây lớn lòng kiêu ngạo, vì một chút lợi nhỏ mà chẳng sợ quả báo đời sau, và nhà vua nói kệ:

Thiêu thân vào lửa dữ

Kẻ tham nước cũng thế

Xét kỹ được và mất

Việc nên làm, không làm.

Chìm vướng trong quốc sự

Chẳng được nơi an lạc

Lúc suy nghĩ như vầy

Thân tâm rất thanh tịnh

Liền được tâm nhàm chán

Chứng ngộ Bích Chi Phật.

Lại có thuyết nói: Nhà vua thấy con mình lâm bệnh nặng, liền buồn rầu trở về cung. Lúc đó, có một quốc vương láng giềng rất thân với nhà vua vừa bị giặc loạn bức bách nên cho sứ đến xin viện binh. Nhà vua nghe xong, liền dẫn tướng sĩ đến cứu quốc vương kia. Hai bên giao chiến dữ dội, giết người không gớm tay, đến nỗi mổ bụng đàn bà có mang, lôi thai nhi ra và giết.

Tận mắt chứng kiến cảnh ấy, nhà vua phát khiếp, sinh lòng nhàm chán, và nói kệ:

Tham chút lợi đất nước

Trầm luân trong bùn dơ

Ham muốn, giận dữ tăng

Đánh nhau sinh thị phi.

Cũng vì tham tài lợi

Mà giết hại lẫn nhau

Chẳng cầu thắng giải thoát

Lại tàn diệt ngôi vua.

Chẳng khác con thiêu thân

Đâm đầu vào lửa chết

Lạ thay! Trong sinh tử

Toàn làm việc điên đảo.

Chẳng đáp nghĩa sinh thành

Lại gây bao họa khổ

Như trên vách núi cao

Có một chút mật ngọt

Người ngu tham chút vị

Chẳng biết khổ rơi xuống

Tư duy như thế rồi

Ngài chứng Bích Chi Phật.

Lúc ấy, nhà vua nói với con: Con không nên nghe lời kẻ xấu, đừng nên làm cái việc phản nghịch. Nếu con trị quốc phải dùng chánh pháp dạy dỗ muôn dân. Nay cha sẽ đem vận nước giao phó cho con.

Cha sắp đi đây! Vương Tử, Phụ tướng và hết thảy quyến thuộc nghe nhà vua nói vậy, đều buồn thương rơi lệ.

Vương Tử vòng tay hỏi vua cha: Bây giờ cha định đâu đâu?

Lúc ấy, nhà vua bay bổng lên hư không, đứng trên ngon núi cao, nói kệ như trên, thân mặc pháp phục, hiện mười tám tướng biến hóa. Muôn dân thấy vậy vui mừng khôn xiết. Thí như con ngựa đã thuần phục, chỉ cần thấy bóng roi là ngoan ngoãn thuận theo, người trí cũng như vậy, thấy người khác chịu khổ, trong tâm liền khiếp sợ mà lo sửa mình.

***