Chuùng ta hoïc Phaät phaûi laáy thaønh toái Chaùnh Giaùc
Laøm muïc tieâu hoïc taäp

kinhphatthuyet.vn

LUẬN A TỲ ĐÀM BÁT KIỀN ĐỘ - KIỀN ĐỘ THỨ BẢY - ĐỊNH - PHẨM BỐN - PHẨM BÀN VỀ A NA HÀM

LUẬN A TỲ ĐÀM BÁT KIỀN ĐỘ

Giảng giải: Tôn Giả Ca Chiên Diên 

Hán dịch: Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Tăng Già Đề Bà, Ngài Tam Tạng Pháp Sư

Trúc Phật Niệm, Đời Dao Tần
 

KIỀN ĐỘ THỨ BẢY

ĐỊNH
 

PHẨM BỐN

PHẨM BÀN VỀ A NA HÀM
 

Năm A na hàm là trung bát Niết Bàn, sinh bát Niết Bàn, hành bát Niết Bàn, vô hành bát Niết Bàn, thượng lưu vãng A ca nị tra.

Năm A na hàm thâu nhiếp tất cả A na hàm hay tất cả A na hàm thâu nhiếp năm A na hàm?

Thế nào là tối thắng trung bát Niết Bàn, sinh bát Niết Bàn?

Thế nào là tối thắng cho đến vô hành bát Niết Bàn, thượng lưu vãng A ca nị tra?

Các học thì tất cả học đó không đến mà muốn đến mà không được mà muốn được mà không chứng mà muốn chứng là học chăng?

Giả sử không đến mà muốn đến, không được mà muốn được, không chứng mà muốn chứng, thì học là tất cả học ấy chăng?

Các vô học thì tất cả vô học ấy không đến mà muốn đến, không được mà muốn được, không chứng mà muốn chứng là vô học chăng?

Giả sử không đến mà muốn đến, không được mà muốn được, không chứng mà muốn chứng, thì không học ấy là tất cả vô học chăng?

Thế nào là nghĩa thuận lưu?

Thế nào là nghĩa nghịch lưu?

Thế nào là nghĩa thật trụ?

Các thật trụ, thì tất cả đó là A la hán chăng?

Giả sử A la hán thì tất cả đó là thật trụ chăng?

Các hoàn tích thì tất cả đó là đến bờ kia chăng?

Giả sử đến bờ kia thì tất cả đó là hoàn tích chăng?

Thế nào là Tỳ kheo được đến bờ kia?

Bồ tát đã đạt đến đâu?

Bồ tát đã được vật gì?

Lại nữa, Đức Thế Tôn nói: Ông nay là Di Lặc trong vị lai lâu xa gọi là Di Lặc Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri.

Đây là trí nào?

Trí này nên nói là biện giải về sự việc gì?

Lại nữa, Đức Thế Tôn nói: Đây là đệ tử của Đức Thế Tôn, hiện pháp biện giải về các giáo, suốt đời gồm đủ phạm hạnh, công việc làm đã xong, danh sắc đã có, biết đúng như thật.

Đây là trí nào?

Nên nói trí này là biện giải về sự việc gì?

Thế nào là nguyện trí?

Nguyện trí nên nói là thiện hay vô ký?

Thế nào là dấu tích còn lại?

Dấu tích còn lại là gọi cho pháp nào?

Lại như Đức Thế Tôn nói: Tỳ kheo thứ nhất trong các đệ tử của ta, trí bậc nhất là Hê Đâu Ma Nạp, trí tuệ mẫn tiệp là Bà Du Phả Lệ Chỉ Lê.

Điều này có gì sai biệt?

Lại như Đức Thế Tôn nói: Tỳ kheo thứ nhất trong các đệ tử của ta, với tâm hướng về thiện là Chúc Lợi Bàn Đặc Ca, tưởng hướng về thiện là Ma Ha Bàn Đặc Ca.

Điều này có gì sai biệt?

Lại như Đức Thế Tôn nói: Tỳ kheo thứ nhất trong các đệ tử của ta, có đại trí tuệ là Xá Lợi Phất, đạt được biện tài là Ma Ha Câu Hy La.

Điều này có gì sai biệt?

Lại như Đức Thế Tôn nói: Trong số đệ tử bậc nhất nơi các Tỳ kheo của ta, Ma Ha Ca Diếp đã hành hạnh Đầu Đà thiểu dục, thiểu dục không vướng mắc là Bạc Câu Lô.

Điều này có gì sai biệt?

Lại như Đức Thế Tôn nói: Ma Ha Nam học diệt trừ năm cái, đã giải thoát.

Thế nào là học diệt trừ năm cái đã giải thoát?

Lại như Đức Thế Tôn nói: Đó đó gọi là pháp tri túc trong Tỳ ni tri túc, là Tỳ ni tri túc trong pháp tri túc.

Thế nào là pháp tri túc trong Tỳ ni tri túc?

Thế nào là Tỳ ni tri túc trong pháp tri túc?

Lại như Đức Thế Tôn nói: Pháp theo thứ tự pháp hướng về pháp.

Thế nào là pháp?

Theo thứ tự pháp hướng về pháp là sao?

Thế nào là pháp luân?

Như nhau thế nào nên nói là chuyển pháp luân?

Thế nào là đẳng pháp?

Như nhau thế nào nên nói là đẳng pháp trụ?

Như nhau thế nào nên nói là đẳng pháp tận?

Nếu sinh thì pháp kia thuộc về đời nào?

Nếu tận thì pháp đó thuộc về đời nào?

Nếu ban đầu từ vô lậu nhập Sơ Thiền, thì vô lậu kia thuộc về đời nào?

Nếu ban đầu từ vô lậu cho đến nhập định Bất dụng, thì vô lậu kia thuộc về đời nào?

Về nghĩa của chương này, xin diễn nói đầy đủ.

Năm A na hàm là trung bát Niết Bàn, sinh bát Niết Bàn, Hành bát Niết Bàn, vô hành bát Niết Bàn, thượng lưu vãng A ca nị tra.

Hỏi: Năm A na hàm thâu nhiếp tất cả A na hàm hay tất cả thâu nhiếp năm A na hàm?

Đáp: Tất cả thâu nhiếp năm chứ không phải năm thâu nhiếp tất cả.

Không thâu nhiếp những gì?

Hiện pháp bát Niết Bàn, A na hàm của cõi Vô sắc.

Hỏi: Thế nào là tối thắng trung bát Niết Bàn, sinh bát Niết Bàn?

Đáp: Đẳng tận trụ trung bát Niết Bàn trội hơn chứ không phải sinh bát Niết Bàn. Nếu kiết của sinh bát Niết Bàn này đã trừ hết thì đa số Niết Bàn kia là trội hơn.

Hỏi: Thế nào là tối thắng cho đến vô hành bát Niết Bàn, thượng lưu vãng A ca nị tra?

Đáp: Đẳng tận trụ vô hành bát Niết Bàn là trội hơn chứ không phải thượng lưu vãng A ca nị tra. Nếu kiết của thượng lưu vãng A ca nị tra này đã hết thì phần nhiều Niết Bàn đó là trội hơn.

Hỏi: Vốn gọi là học sĩ thì tất cả đó là không đến mà muốn đến, không được mà muốn được, không chứng mà muốn chứng là học chăng?

Đáp: Hoặc là học sĩ nhưng đó là không đến mà muốn đến, không được mà muốn được, không chứng mà muốn chứng là không phải học.

Thế nào là học sĩ, học sĩ đó không đến mà muốn đến, không được mà muốn được, không chứng mà muốn chứng là không học?

Tánh học sĩ là trụ, đó gọi là học sĩ, học sĩ ấy không đến mà muốn đến, không được mà muốn được, không chứng mà muốn chứng là không phải học.

Thế nào là không đến mà muốn đến, không được mà muốn được, không chứng mà muốn chứng thì học đó không phải là học sĩ?

A la hán hoặc người phàm phu vận dụng phương tiện mong cầu hướng thượng, đó gọi là không đến mà muốn đến, không được mà muốn được, không chứng mà muốn chứng, học đó không phải là học sĩ.

Thế nào là học sĩ cũng không đến mà muốn đến, không được mà muốn được, không chứng mà muốn chứng là học?

Học sĩ dùng phương tiện mong cầu hướng lên trên, đó gọi là học sĩ cũng không đến mà muốn đến, không được mà muốn được, không chứng mà muốn chứng là học.

Thế nào là cũng không phải học sĩ, cũng không đến mà muốn đến, không được mà muốn được, không chứng mà muốn chứng là không phải học?

A la hán hoặc người phàm phu trụ tánh, đó gọi là cũng không phải học sĩ, cũng không đến mà muốn đến, không được mà muốn được, không chứng mà muốn chứng là không phải học.

Hỏi: Vốn gọi là vô học sĩ thì tất cả đó là không đến mà muốn đến, không được mà muốn được, không chứng mà muốn chứng là vô học chăng?

Đáp: Hoặc là vô học sĩ nhưng đó là không đến mà muốn đến, không được mà muốn được, không chứng mà muốn chứng, thì đó đều là học.

Thế nào là vô học sĩ nhưng đó là không đến mà muốn đến, không được mà muốn được, không chứng mà muốn chứng, thì đó đều là học?

A la hán dùng phương tiện mong cầu lên trên, đó gọi là vô học sĩ nhưng đó là không đến mà muốn đến, không được mà muốn được, không chứng mà muốn chứng, thì đó đều là học.

Thế nào là không đến mà muốn đến, không được mà muốn được, không chứng mà muốn chứng, thì đó đều là học mà đó không phải là vô học sĩ chăng?

Học sĩ hoặc người phàm phu trụ vào tánh đó gọi là không đến mà muốn đến, không được mà muốn được, không chứng mà muốn chứng, không phải học nhưng đó không phải là vô học sĩ.

Thế nào là cũng vô học sĩ, cũng không đến mà muốn đến, không được mà muốn được, không chứng mà muốn chứng, không phải học?

A la hán trụ vào tánh, đó gọi là vô học sĩ, cũng không đến mà muốn đến, không được mà muốn được, không chứng mà muốn chứng, không phải học.

Thế nào là không phải vô học sĩ, cũng không đến mà muốn đến, không được mà muốn được, không chứng mà muốn chứng, thì đó đều là học?

Học sĩ hoặc là người phàm phu dùng phương tiện mong cầu lên trên, đó gọi là không phải vô học sĩ, cũng không đến mà muốn đến, không được mà muốn được, không chứng mà muốn chứng, thì đó đều là học.

Hỏi: Thế nào là nghĩa thuận lưu?

Đáp: Các pháp sinh ra, các pháp diệt đi, các pháp hiện hữu, các pháp được sinh ra, các pháp được tồn tại hướng về chủng loại ấy, phương thức ấy, duyên ấy, đạo ấy, đó vốn là thuận lưu.

Hỏi: Thế nào là nghĩa nghịch lưu?

Đáp: Các pháp hết sinh ra, hết diệt đi, hết hiện hữu, hết được sinh ra, hết được tồn tại hướng về chủng loại ấy, phương thức ấy, duyên ấy, dấu tích ấy, đó vốn là nghịch lưu.

Hỏi: Thế nào là nghĩa thật trụ?

Đáp: Đó không phải giống như các pháp sinh ra, các pháp diệt đi, các pháp hiện hữu, các pháp được sinh ra, các pháp được tồn tại này hướng về chủng loại ấy phương thức ấy, duyên ấy, đạo ấy, dấu tích ấy.

Đó không phải giống như các pháp hết sinh ra, hết diệt đi, hết hiện hữu, hết được sinh ra, hết được tồn tại này hướng về chủng loại ấy, phương thức ấy, duyên ấy, đạo ấy, dấu tích ấy. Đó vốn là nghĩa thật trụ.

Hỏi: Các thật trụ thì tất cả đó là A la hán chăng?

Đáp: Như thế, các A la hán thì đó là tất cả thật trụ.

Hỏi: Có thể có thật trụ mà đó không phải là A la hán chăng?

Đáp: Có, A na hàm.

Đức Thế Tôn cũng nói: Nếu học đầy đủ diệt năm cấu uế, thì tâm pháp vô lậu đạt được định căn tự tại của thật trụ ấy, đó gọi là người thật trụ.

Hỏi: Các hoàn tích thì tất cả đó là đến bờ bên kia chăng?

Đáp: Đúng như vậy. Các hoàn tích thì tất cả đó là đến bờ bên kia.

Hỏi: Có thể đến bờ bên kia mà đó không phải là hoàn tích chăng?

Đáp: Có, A na hàm. Đức Thế Tôn cũng nói.

Hỏi: Thế nào là Tỳ kheo được đến bờ kia?

Đáp: Năm kiết phần dưới đã hết không còn sót lại gì.

Hỏi: Bồ tát đầy đủ điều gì?

Đáp: Đầy đủ hạnh báo của mình thực hiện không chán.

Hỏi: Đạt được điều gài gọi là Bồ tát?

Đáp: Hạnh và báo của mình.

Lại như Đức Thế Tôn nói: Ông nay là Di Lặc trong vị lai lâu xa, đó gọi là Di Lặc Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri.

Hỏi: Đây là trí nào?

Đáp: Nhân trí và đạo trí.

Hỏi: Trí này nên nói là biện giải về sự việc gì?

Đáp: Trí là nhân của hạnh báo tự mình, các căn lực giác đạo chủng vô lậu, đạt được đạo quả vô thượng bồ đề là nhờ đạo trí này.

Lại như Đức Thế Tôn nói: Đây là đệ tử của Đức Thế Tôn, hiện pháp biện giải về các giáo, không còn sinh tử suốt đời gồm đủ phạm hạnh, công việc làm đã xong, danh sắc đã có, biết đúng như thật.

Đây là trí nào?

Đáp: Là đạo trí.

Hỏi: Trí này nên nói là biện giải về sự việc gì?

Đáp: Các căn lực giáo đạo chủng vô lậu được trừ sạch các lậu, đó gọi là đạo trí.

Hỏi: Thế nào là nguyện trí?

Đáp: Như A la hán hiểu rõ nghĩa của các dục, họ phát nguyện rồi tiến vào đỉnh cao của thiền thứ tư, từ tam muội ấy bắt đầu biết rõ tất cả các nghĩa, đó gọi là nguyện trí.

Hỏi: Nguyện trí nên nói là thiện hay vô ký?

Đáp: Nguyện trí hoặc thiện, hoặc vô ký.

Hỏi: Thế nào là dấu tích khác?

Đáp: Tất cả A la hán trong nội tâm luôn luôn phân biệt rõ thiện pháp chứ không hoàn toàn ở ngoài, đó gọi là trong nội tâm luôn luôn phân biệt rõ thiện pháp..

Hỏi: Dấu tích và nghĩa lý khác là gọi cho pháp nào?

Đáp: Vô cấu khác.

Lại như Đức Thế Tôn nói: Tỳ kheo thứ nhất trong số đệ tử của ta, trí bậc nhất là Hê Đâu Ma Nạp, trí tuệ mẫn tiệp là Bà Du quả y.

Điều này có gì sai biệt?

Đáp: Tôn giả Hê Đâu Ma Nạp luôn giữ tâm ngay thẳng thuận với tự nhiên, Tôn giả Bà Du quả y ít chú ý nhưng tâm nhu hòa. Đây gọi là sự sai biệt.

Lại như Đức Thế Tôn nói: Tỳ kheo thứ nhất trong số đệ tử của ta, với tâm hướng về thiện là Chúc Lợi Bàn Đặc Ca, tưởng hướng về thiện là Ma Ha Bàn Đặc Ca.

Điều này có gì sai biệt?

Đáp: Tôn giả Chúc Lợi Bàn Đặc Ca trải qua nhiều tâm mà quán xét tâm, Tôn giả Ma Ha Bàn Đặc Ca trải qua nhiều pháp mà quán xét pháp.

Đây là sự sai biệt?

Lại như Đức Thế Tôn nói: Tỳ kheo thứ nhất trong số đệ tử của ta, có đại trí tuệ là Xá Lợi Phất, đạt được biện tài là Ma Ha Câu Hy La.

Điều này có gì sai biệt?

Đáp: Tôn giả Xá Lợi Phất trải qua nhiều nghãi lý mà biện giải, Tôn giả Ma Ha Câu Hy La trải qua nhiều về bốn biện tài. Đây là sự sai biệt.

Lại như Đức Thế Tôn nói: Tỳ kheo thứ nhất trong số đệ tử của ta, Tôn giả Ma Ha Ca Diếp hành hạnh Đầu Đà thiểu dục, còn Tôn giả Bạc Câu Lô thì thiểu dục không vướng mắc.

Điều này có gì sai biệt?

Đáp: Tôn giả Ma Ha Ca Diếp hoặc được thức ăn, hoặc ngon hay dở, với ý niệm bình đẳng mà thọ thực không có ý phân biệt đây kia.

Tôn giả Bạc Câu Lô được các thức ăn hoặc ngon hay dở, Tôn giả để riêng thức ăn ngon ra mà chỉ ăn thứ dở. Lại nữa, Tôn giả Ma Ha Ca Diếp là bậc Đại đức nhận thức xa rộng, khi thọ nhận các thứ thức ăn y phục giường nằm thuốc thang trị bệnh thì luôn bình đẳng theo hạnh Đầu Đà.

Tôn giả Bạc Câu Lô không phải là bậc đại đức có nhận thức xa rộng, cũng ít nhận được các vật dụng cúng dường như y phục thức ăn thuốc men trị bệnh v.v… một vị thì luôn luôn bình đẳng theo hạnh Đầu Đà, một vị thì không có nhận thức xa rộng nên không bình đẳng theo hạnh Đầu Đà. Đây là sự sai biệt.

Lại như Đức Thế Tôn nói: Ma Ha Nam học diệt trừ năm cái được giải thoát.

Thế nào là học diệt trừ năm cái được giải thoát?

Đáp: Tu đà hoàn và Tư đà hàm học hiểu về nghĩa này để diệt trừ năm cái kia, diệt lìa dần, lìa chướng dần, trái với chướng dần, trái dần nên tự tại. Vì lý do này cho nên Tu đà hoàn và Tư đà hàm đều học hiểu về nghĩa ấy.

Lại như Đức Thế Tôn nói: Đó đó gọi là pháp tri túc trong Tỳ ni tri túc, là Tỳ ni tri túc trong pháp tri túc.

Thế nào là pháp tri túc trong Tỳ ni tri túc?

Thế nào là Tỳ ni tri túc trong pháp tri túc?

Đáp: Tám thánh đạo chủng gọi là pháp Tỳ ni loại trừ tham dâm giận dữ ngu si thì được gọi là Tỳ ni. Tám thánh đạo chủng kia nếu không tu, không hiểu rộng thì đối với tham dâm giận dữ si ấy, Tỳ ni không thể tác chứng.

Tỳ ni không thể tác chứng thì đối với các thứ tham dâm giận si kia, tám thánh đạo chủng không thể tu, không thể hiểu rộng. Pháp tri túc trong Tỳ ni tri túc là như thế. Tỳ ni tri túc trong pháp tri túc là như thế.

Lại như Đức Thế Tôn nói: Pháp theo thứ tự pháp hướng về pháp.

Thế nào là pháp?

Thứ tự pháp hướng về pháp là sao?

Đáp: Niết Bàn đó gọi là pháp, tám thánh đạo chủng gọi là theo thứ tự pháp hướng về pháp. Lại nữa, giới giải thoát gọi là pháp, Tỳ ni giới giải thoát gọi là theo thứ tự pháp hướng đến pháp. Lại nữa, giới luật nơi thân và giới luật nơi miệng gọi là pháp, đẳng trì định đó gọi là thứ tự pháp hướng đến pháp kia.

Hỏi: Thế nào là pháp luân?

Đáp: Tám thánh đạo chủng.

Hỏi: Như nhau thế nào nên nói là chuyển pháp luân?

Đáp: Như lúc Tôn giả A Nhã câu lân kiến pháp.

Hỏi: Thế nào là đẳng pháp?

Đáp: căn lực giác đạo chủng vô lậu.

Hỏi: Như thế nào nên nói là đẳng pháp trụ?

Đáp: Các pháp hiện hành ấy là trụ.

Hỏi: Như nhau thế nào nên nói đẳng pháp diệt?

Đáp: Các pháp hiện hành ấy là diệt.

Hỏi: Các pháp sinh ra thuộc về đời nào?

Đáp: Thuộc về đời vị lai.

Hỏi: Nếu các pháp diệt đi thì thuộc về đời nào?

Đáp: Thuộc về đời hiện tại.

Hỏi: Nếu ban đầu từ vô lậu nhập sơ thiền, thì vô lậu thuộc về đời nào?

Đáp: Thuộc về đời vị lai.

Hỏi: Nếu ban đầu từ vô lậu cho đến nhập định Bất dụng, thì vô lậu thuộc về đời nào?

Đáp: Thuộc về đời vị lai.

***